Pháp môn Tịnh Độ trong kinh điển Pàli – Toại Khanh

 

Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh Độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitàbhasutra và Sukhavativyùhasutra ) từ Hán Tạng, vốn được phiên dịch từ kinh điển Sanskrit. Ở đó, cõi Tịnh Độ hay Cực Lạc (từ Phạn ngữ là Sukhavatì) được mô tả là một cảnh giới tuyệt vời với tất cả những thứ du dương, mát mẻ, thơm ngát và không có chuyện đói lạnh. Con đường dẫn đến cõi này có thể chỉ gói gọn trong công phu trì niệm hồng danh Phật Di Đà. Ngoài sự thanh tịnh có được từ việc nhất tâm trong lúc niệm Phật Di Đà, oai lực của Ngài cũng thừa sức tiếp dẫn vong linh đương sự (tức người niệm Phật) vãng sinh về thế giới Tịnh Độ của Ngài để họ tiếp tục tu hành trong điều kiện thuận lợi hơn xưa gấp triệu lần. Trên ấy giữa người với người không hề biết tương tranh, thù hận vì ở đó không có chuyện chiếm hữu lợi danh như ở cõi Sa Bà nhiều kiếp nạn này.Nhưng đó là theo Hán tạng, nguồn giáo lý chủ đạo của hệ Phật giáo Bắc truyền. Trong bài viết này ta thử tìm hiểu vấn đề qua kinh điển Pàli, nguồn giáo lý căn bản của Phật Giáo Nam phương, xem sao. Dĩ nhiên, trong Tam Tạng Pàli cũng có khái niệm Tịnh Độ (nếu ta muốn gọi thế) với những những trình bày thật rõ ràng về cảnh giới này, những cư dân ở đó và con đường dẫn đến cảnh giới Tịnh Độ, tức phép cầu vãng sanh theo kinh điển Nam Truyền.I- CÕI TỊNH ĐỘ THEO KINH ĐIỂN PÀLI

Trước hết, cõi Tịnh Độ được biết đến trong kinh điển Pàli qua danh từ Suddhàvàsa, còn được dịch là Tịnh Cư, theo lối chiết tự Suddha (thanh tịnh) và Àvàsa (chổ ở ). Vậy Suddhàvàsa cũng có thể được dịch là Tịnh Độ, Tịnh Thổ. Thậm chí chữ Pàli này còn gần gũi với chữ Tịnh Độ, Tịnh Thổ hơn là Sukhavati (Chốn An Lạc), một chữ chỉ có thể xem là tương đương với từ Sugati (Lạc Cảnh, Thiện Thú) trong kinh điển Pàli, chỉ chung cho các cõi nhân thiên.

Theo các Chú Sớ A Tỳ Đàm, có tất cả 5 cõi Tịnh Độ, nằm trong 16 cõi Phạm thiên Hữu Sắc, và là chổ tái sanh của các bậc Thinh Văn Bất Lai hay còn gọi là A-Na-Hàm (Anàgàmi, Người-Không-Còn-Trở-Lại-Các-Cõi-Dục-Giới). Tuy cảnh giới này chỉ gồm toàn các vị Bất Lai và La Hán (chứng La Hán sau khi sanh về đây), nhưng trên căn bản vì vẫn là cõi Hữu Sắc nên ở 5 cõi Tịnh Độ này vẫn có những lâu đài, hoa viên rất trang nghiêm, dĩ nhiên không phải là nơi chốn hưởng thụ, mà đó chỉ là những dấu vết tối thiểu của một cõi Ngũ Uẩn [*]. Về tuổi thọ, chư thánh Bất Lai ở cõi thấp nhất trong 5 cõi Tịnh Độ là cõi Vô Phiền (Avihà) có thọ mạng 1000 đại kiếp, cõi kế đến là Vô Nhiệt (Àtappà) có thọ mạng 2000 đại kiếp, cõi thứ ba là Thiện Hiện (Sudassà) có thọ mạng 4000 đại kiếp, cõi thứ tư là Thiện Kiến (Sudassì) có thọ mạng 8000 đại kiếp và cõi Sắc Cứu Cánh (Akanittha) có thọ mạng 16000 đại kiếp.

Do có những lúc trãi qua một thời gian quá dài không có chư Phật ra đời độ sinh, nhân số trên 5 cõi Tịnh Độ chỉ có giảm mà không được bổ sung nên cũng có những thời điểm 5 cõi này không tiếp tục tồn tại.

II -CƯ DÂN TỊNH ĐỘ THEO KINH ĐIỂN PÀLI

Trước tiên là vài hàng trình bày đại lược về 4 tầng Thánh Trí làm nên 4 bậc thánh nhân và chính đức Phật cũng được kể vào đó. Sơ Quả hay Tu Đà Huờn (Sotàpatti, Dự Lưu ), còn được gọi là Thất Lai, người không thể tái sanh quá 7 lần, là vị đã chấm dứt hoàn toàn 3 thứ phiền não Thân Kiến (nôm na là chấp kiến trong 5 Uẩn), Hoài Nghi (nghi ngờ về Phật Pháp nói chung) và Giới Cấm Thủ (chấp trước các tín điều mù quáng). Ở một số vị, thánh trí Sơ Quả chỉ là một giai đoạn thoáng qua trước khi hoàn tất các tầng thánh trí cao hơn. Như trường hợp đức Phật hoặc các vị Thinh Văn tốc chứng. Nhưng cũng có lúc giai đoạn này kéo dài trong nhiều giờ, nhiều ngày, nhiều năm hoặc vài kiếp sống (dĩ nhiên không quá 7 kiếp). Sớ Giải Trường Bộ ghi rằng thiên vương Đế Thích hiện nay là một vi thánh Sơ Quả. Khi hết tuổi thọ, ngài sẽ sinh xuống nhân gian làm Chuyển Luân Vương và chứng đắc Nhị Quả Tư Đà Hàm. Sau đó sanh lên Đao Lợi Thiên chứng Tam Quả A Na Hàm và lần lượt tái sanh ở đủ 5 cõi Tịnh Độ, bắt đầu là cõi Vô Phiền. Cuối cùng ngài sẽ chứng quả La Hán và nhập diệt ở cõi Sắc Cứu Cánh.

Tầng thánh trí thứ hai là Nhị Quả Tư Đà Hàm. Ngoài 3 phiền não đã chấm dứt ở tầng thánh trước, quả vị này còn làm giảm nhẹ Dục Ái và Sân Hận. Do chỉ còn có thể tái sanh cõi Dục Giới một lần nữa thôi, nên quả vị này còn được gọi là Nhất Lai (Sakadàgàmì).

Tầng thánh thứ ba là Tam Quả A na Hàm, chữ phiên âm từ tiếng Pàli là Anàgàmi, nghĩa là bậc Bất Lai, người không còn trở lui các cõi Dục Giới nữa ( có tất cả 11 cõi Dục Giới). Theo A Tỳ Đàm Tạng Pàli thì do đã chấm dứt Dục Ái (niềm tham luyến trong ngũ trần) và Sân Hận nên vị thánh Tam Quả trong trường hợp không thể chứng La Hán rồi nhập diệt ngay đời này thì chỉ có hai con đường để đi:

A-

Nếu đã chứng đắc Ngũ Thiền thì sẽ tùy theo khả năng mạnh yếu của Ngũ Quyền (Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ) mà sanh về cõi nào đó trong 5 cõi Tịnh Độ. Tín Quyền nổi trội thì sanh về cõi Vô Phiền, Tấn Quyền hùng hậu thì về cõi Vô Nhiệt, Niệm Quyền hùng hậu về cõi Thiện Hiện, Định Quyền hùng hậu thì về cõi Thiện Kiến, Tuệ Quyền thâm hậu thì sanh về cõi Sắc Cứu Cánh (Pàli gọi là Akanittha, Không-Thứ-Gì-Yếu-Kém). Ở cõi Tịnh Độ thứ năm này toàn bộ Ngũ Quyền đều được sung mãn, vì đây là nơi chốn sau cùng để một vị Bất Lai chứng quả La Hán và nhập diệt.B-

Trong trường hợp vị thánh Bất Lai chưa chứng qua một tầng thiền định nào, tức chỉ có trí tuệ Thiền Quán (Vipassanà) mà không từng tu tập thiền Chỉ (Samatha) thì lúc mạng chung, vị này do khả năng ly dục vô sân tuyệt đối nên tối thiểu cũng thành tựu Sơ Thiền trước khi mạng chung ở cõi Dục giới và như vậy cũng đủ để sanh về cõi Phạm Thiên thấp nhất là Phạm Thiên Sơ Thiền.Do túc duyên và trình độ tu chứng có khác nhau nên giữa các bậc thánh Tam Quả cũng có vài sai biệt, theo Manorathapurani, Chú Sớ Tăng Chi Bộ (Phần Tika):

– Antaràparinibbàyì (Tiền Bán Niết Bàn): vị Bất Lai chứng La Hán khi chưa sống hết phân nửa thọ mạng cõi Tịnh Độ nào đó trong 5 cõi.

-Upahaccaparinibbàyì (Hậu Bán Niết Bàn): Chứng La Hán sau khi sống hơn nửa thọ mạng ở cõi Tịnh Độ nào đó.

– Uddhamsoto Akanitthagàmì (Luân Lưu Niết Bàn): Do căn tánh không xuất sắc, có vị Bất Lai phải lần lượt sanh đủ 5 cõi Tịnh Độ mới chứng quả La Hán rồi nhập diệt ở cõi Tịnh Độ cao nhất.

– Asankhàraparinibbàyì (Bất Lao Niết Bàn): Vị Bất Lai có thể chứng La Hán mà không cần nhiều cố gắng.

– Sasankhàraparinibbàyì (Cần Lao Niết Bàn): Vị Bất Lai phải nhiều nổ lực mới có thể chứng La Hán.

Tầng thánh trí thứ tư chính là quả vị La Hán, người chấm dứt toàn bộ phiền não. Theo A Tỳ Đàm Pàli thì có 3 quả vị La Hán: Chư Phật Chánh Đẳng Giác (sammàsambuddha hay Sabbannubuddha – Toàn Giác) cũng là những vị La Hán nhưng do tự mình chứng đắc và là đạo sư hướng dẫn cho những người hữu duyên chứng đắc La Hán. Những vị La Hán đệ tử này được gọi là Thinh Văn Giác (Sàvakabuddha). Quả vị La Hán thứ ba là Độc Giác Phật (Paccekabuddha), những vị tự mình chứng ngộ La Hán nhưng không thể hướng dẫn người khác chứng ngộ La Hán. Kinh điển Hán Tạng còn gọi Độc Giác Phật là Duyên Giác Phật vì cho rằng các ngài nhờ liễu ngộ nguyên lý Duyên Khởi mà giác ngộ (cách nghĩ này bắt nguồn từ những giai thoại về chư Phật Độc Giác trong Chú Sớ Tiểu Bộ Kinh, một trong những bộ phận kinh điển từng làm nền tảng cho nhiểu kinh luận hậu tác, ai từng đọc kỹ các bộ A Hàm sẽ thấy rõ điều này). Kỳ thực, nếu đọc kinh Đại Duyên trong Trường Bộ Kinh, ta sẽ thấy lý Duyên Khởi và lý Tứ Đế (vẫn bị hiểu lầm là dành riêng cho Thinh Văn) vốn dĩ chỉ là một. Trong Trung Bộ Kinh, đức Phật đã xác định ai thấy lý Duyên Khởi chính là thấy Pháp và ngược lại. Đồng thời, không hề có chuyện một người giác ngộ lý Tứ Đế mà lại mơ hồ về lý Duyên Khởi hay ngược lại. Tất cả quả vị La Hán vừa nêu trên đây luôn giống nhau về khiá cạnh giác ngộ các pháp cần yếu (như Tứ Đế, Duyên Khởi,..), chỉ khác ở hai điểm chính: Tự mình hiểu ra hay phải nhờ thầy hướng dẫn, và điểm thứ hai là ngoài trí tuệ giác ngộ có còn khả năng hiểu biết sâu rộng những gì nằm ngoài lý tưởng giác ngộ hay không. Xét về khía cạnh này, chỉ có chư Phật Chánh Đẳng Giác là viên mãn. Trong bài viết này chúng ta chỉ đặc biệt nhấn mạnh quả vị Bất Lai, vì đề tài ở đây là các cõi Tịnh Độ.

III- PHÉP VÃNG SANH TỊNH ĐỘ THEO KINH ĐIỂN PÀLI

Vãng sanh vẫn được dùng song song với chữ siêu sanh, nhưng theo tinh thần A Tỳ Đàm Pàli mà nói thì Siêu Sanh còn có thể được hiểu là vượt thoát tái sanh, một điều chỉ thực hiện được bởi một vị La Hán. Như vậy trong trường hợp vị Bất Lai sanh về các cõi Tịnh Độ chỉ có thể gọi là Vãng Sanh. Và nếu phải trả lời câu hỏi về con đường vãng sanh Tịnh Độ, thì như tất cả những gì vừa nêu phần trên, ta hoàn toàn có thể nói rằng Vãng Sanh Tịnh Độ chỉ là một phần đường trên hành trình giải thoát của một vị Thinh Văn, và như thế cái gọi pháp môn Tịnh Độ hay con đường vãng sanh trong trường hợp này cũng đồng nghĩa với hành trình Tam Học, hành trình Tứ Niệm Xứ, Bát Chánh Đạo, nói chung là hành trình 37 Bồ Đề Phần. Các pháp trong 37 Bồ Đề Phần đối với nhau chỉ là mối quan hệ Tương Tức: Cái này chính là cái kia, trong cái kia có cái này.

Đã nói rõ ràng như vậy thì lời đáp cho câu hỏi về con đường vãng sanh lúc này đã là toàn bộ những gì mà ta vẫn gọi là Phật Pháp và theo cách hiểu này, pháp môn Tịnh Độ cần thiết cho tất cả mọi người, chỉ trừ những vị nuôi hạnh Bồ Tát, muốn trở thành một đức Phật Chánh Đẳng Giác trong tương lai. Một khi đã chấp nhận ghé bến Tịnh Độ thì không thể đi xa hơn nữa. Bởi theo kinh điển Pàli chỉ có hàng Thinh Văn mới có thể rơi vào trường hợp kéo dài thời gian sau khi chứng ngộ một quả vị Hữu Học nào đó, chỉ vì khiếm khuyết túc duyên. Bởi rõ ràng 5 cõi Tịnh Độ chỉ là trạm trung chuyển cho những người chậm bước và điều này dĩ nhiên không thể xảy ra đối với chư Phật.

Đồng thời, chiếu theo tinh thần căn bản của Phật Giáo mà nói thì khi nhắc đến pháp môn Tịnh Độ, ta còn phải định nghĩa lại chữ CẦU trong CẦU VÃNG SANH vì Cầu Vãng Sanh không hề có nghĩa là chờ đợi sự tiếp dẫn của bất cứ ai, mà phải là sự lên đường bằng chính đôi chân của mình. Vì sao lại thế? Xin thưa: Khi ta nói ai đó đã sáng thế có nghĩa là ta đang gián tiếp nguyền rủa kẻ đã tạo nên một thế giới khổ nhiều hơn vui, và khi ta cường điệu cái gọi là oai lực gia trì của chư Phật có nghĩa là ta đang thầm trách các Ngài khi Phật lực thì trùng trùng nhưng người khổ vẫn cứ điệp điệp. Mong thay!

TOẠI KHANH
FLORIDA, MÙA TỰ TỨ 2005

[*] Theo A Tỳ Đàm Pàli, trong cái gọi là thế giới này gồm có 31 cõi với 11 cõi Dục giới (có đủ 5 uẩn), 16 cõi Sắc giới (trong đó có cõi Vô Tưởng, chỉ có Sắc uẩn mà thôi), và 4 cõi Vô Sắc (chỉ có 4 uẩn Thọ, Tưởng, Hành, Thức).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Xin xem thêm trong các sách Abhidhammatthasangaha (Thắng Pháp Tập Yếu Luận, bản dịch của ngài Minh Châu), The Essence Of Buddha Abhidhamma của giáo sư Mehm Ti Mon (sách miễn phí trên Internet), Chúng Sanh và Sinh Thú của ngài Jotikàcariya (bản tiếng Việt của Toại Khanh)…

-ooOoo-

Source:
http://buddhanet.net/budsas/uni/u-vbud/vbkin220.htm

Lần đầu tiên tôi gặp một nhà sư – Tỳ KHEO BODHI – ĐÀO VIÊN dịch

LTS: Hòa thượng Thích Minh Châu là một trong những bậc Đại danh Tăng Việt Namđương thời. Uy đức, đạo hạnh của Hòa thượng ảnh hưởng không chỉ ở Việt Nam mà cả thếgiới. Nhân cách, tài năng của ngài ngời sáng từ những hành vi, cử chỉ đời thường – và dĩ nhiên, từ chốn pháp đường, giảng đường và những công trình nghiên cứu, dịch thuật quan trọng. Bài viết sau đây của Tỳ kheo Bodhi đã phần nào nói lên điều đó – NSGN xin trân trọng giới thiệu đến với quý độc giả. NSGN

Hồi đó là tuần lễ đầu tiên của tháng 8, năm 1965, sau khi học xong khóa hè, tôi dự định sẽ đi California từ New York bằng xe hơi. Ngày ấy tôi mới 20 tuổi và sang tháng 9 là tôi sẽ vào năm thứ tư Đại học Brooklyn. Tôi muốn đến thăm một người bạn. Anh ta đang ở San Francisco mùa hè ấy. Tôi cũng đã thu xếpđể đi theo mấy người bạn. Chúng tôi khởi hành từ một quán ăn nhỏ gần Đại học Brooklyn vào một buổi sáng thứ Hai, và sau khi lái xe cả ngày trên đường, chúng tôi dừng lại ở Madison, Wisconsin, để ngủ đêm nhờ nhà một người bạnđồng hành.
Đấy là lần đầu tiên tôi được đi qua phía Tây của dãy núi Pocono, điều đó làm tôi rất thích thú. Sau một đêm ngủ khỏe, sáng hôm sau, tôi quyết định đi bộmột lúc. Đó là một buổi sáng nắng ấm. Tôi thả bước qua những phố vắng để đến một cái hồ lớn rất đẹp nằm cạnh Đại học Wisconsin.Đi theo đường đất vào phía trong, tôi tiến vào khuôn viên của trường đại học. Tôi đang vào trung tâm khuôn viên thì một sự việc rất đáng ngạc nhiên đã xảy ra. Ở tầm mắt bên phải của tôi, cánh cửa ra vào tòa nhà bằng đá bỗng nhiên mởra và một người đàn ông trung niên, nét mặt miền Đông Á, mặc áo dài rộng màu vàng, bước ra. Theo ngay sau là một người Mỹ cao lớn bước theo bắt kịp vị đàn ông đó và hai người sánh vai vừa đi vừa nói chuyện.
Ngay lập tức, tôi biết là tôi đang thấy một nhà sư. Tôi chưa bao giờ gặp một nhà sư nào, và hồi ấy, ở Hoa Kỳ số nhà sư thực sự có thể đếm trên đầu ngón tay của một bàn tay. Mấy tháng trước, tôi đã bắt đầu đọc về đạo Phật, và qua cuốn sách “Siddhartha” của Hermann Hesse, tôi đã biết là các nhà sư đều mặc áo màu vàng nghệ. Do đó, tôi nhận ra ngay con người tôi trông thấy là một Tỳ-kheo. Tôi cảm thấy rất ngạc nhiên và ngẩn người ra khi thấy vẻ bình thản và tự tại của con người ấy, đang toát ra một sự thư thái, sự mãn nguyện của nội tâm, cùng vẻ trang nghiêm mà tôi chưa từng thấy ở một người Tây phương nào. Người Hoa Kỳ đi bên cạnh, dường như là một vị giáo sư, có vẻ như rất kính trọng và nể nang người đó. Điều đó khiến tôi nghĩ rằng vị ấy không phải là một nhà sư bình thường mà là một người có vị thế cao. Chỉ nhìn vị ấy đi qua, tôi đã cảm thấy thích thú và hạnh phúc vô cùng. Tôi nghĩ tình cảm của tôi lúc ấy cũng như tình cảm của một thanh niên Bà-la-môn xứ Ấn Độ ngày xưa, khi anh ta ngước lên và lần đầu tiên nhìn thấy, bước trên một lối đi gần anh ta, một vị đệ tử của con người khổ hạnh Gautama, người được mọi người gọi là Đấng Giác ngộ.
Lúc ấy, tôi chỉ đứng cách họ khoảng 70 thước, tôi muốn đến gần hỏi thăm nhà sư và tham vấn nhiều câu khác nữa, nhưng tôi nhát quá và cũng không muốn tỏra điên khùng mà làm như vậy. Thế là tôi chỉ trân trân đứng nhìn, mắt chăm chú quan sát mọi cử chỉ của ông ta suốt bốn, năm phút khi hai người bước qua sảnhđường. Quả thật là tôi đã chết trân ra đấy, như đã vào một nhân sinh pháp giới khác. Trong tâm tôi sôi lên một niềm ao ước. Tôi nghĩ lúc ấy nếu có ai đứng sau mà chích tôi bằng một cái kim, tôi cũng chẳng cảm thấy gì, bởi vì đầu óc tôi đãđể hết cả vào nhà sư đang đi qua. Thế rồi, nhà sư với vị giáo sư tới một tòa nhà khác, ông giáo sư mở cửa, và hai người biến mất vào trong đó. Tôi vẫn còn cảm thấy thích thú được gặp nhà sư, nhưng sự thích thú đó nay đã bị một chút buồn chen lấn vào. Lòng nặng trĩu khi thấy cuộc gặp gỡ đã qua đi, và tôi đã mất cơ hội tìm đến một nguồn tuệ giác còn tại thế, đến từ Đông phương. Bây giờ tôi chỉ có thể nghĩ rằng nhà sư tuyệt vời đó đã đi mất, tôi phải đi đường tôi và chúng tôi sẽ không bao giờ gặp nhau nữa.
Quả thực là nghiệp báo đã vận động một cách kỳ lạ và bất ngờ. Khoảng hơn một năm sau đó, vào tháng Chín năm 1966, tôi ghi danh vào Đại học Claremont Graduate School tại tiểu bang California (cách 25 dặm về phía Đông thành phốLos Angeles), để theo học môt chương trình tiến sĩ triết học. Vào học kỳ mùa Xuân năm ấy, có một nhà sư từ Việt Namđến học tại Claremont và dọn đến ở ngay tầng dưới cùng khu nội trú với tôi. Vị này không có gì là“thư thái và tự tại” như vị sư tôi gặp ở Wisconsin, mà là một loại “hỷ lạc chi nhân”, hay chơi đàn banjo, thích nghêu ngao hát nhạc dân ca Việt Nam và học khoa Chính trị – một môn học ông ta hay nói tới một cách bạo dạn có thể làm cho Henry Kissinger phải phát ngượng. Vì những lẽ đó, cho nên mặc dầu tôi ưa thích Phật giáo, tôi phải “kính nhi viễn chi” nhà sư này. Tuy vậy, một khi biết ông ta rõ hơn, tôi cũng mến ông ta và rồi nhận ông ta là người thầy Phật họcđầu tiên của mình. Sang đến mùa Hè năm 1967, chúng tôi đã cùng ở chung một phòng của khu nội trú cho sinh viên cao học và ít lâu sau, cùng ra thuê một căn nhà nhỏ ngoài khuôn viên của trường.
Một hôm (có lẽ là vào tháng 11 năm 1967) ông sư bạn tôi bảo tôi là có một vị Thượng tọa từ Việt Nam, tên là Thích Minh Châu, hiện đang ở Hoa Kỳ và ngài sẽ đến Los Angeles một ngày gần đây. Ông bạn tôi nói Thượng tọa Minh Châu là Viện trưởng Đại học Vạn Hạnh và là một nhà trí thức vẹn toàn. Thượng tọa đã có bằng tiến sĩ từ Đại học Phật giáo Nalanda bên Ấn Độ và ngài đang soạn thảo một bộ sách nghiên cứu đối chiếu hai bộ Trung bộ kinh viết bằng Pali và kinhTrường a hàm viết bằng Hán tự. Ông sư bạn tôi cho biết, sẽ đi Los Angeles để đảnh lễThượng tọa Minh Châu và mời tôi cùng đi theo.
Thế là một buổi sáng tươi đẹp mùa Thu năm ấy, chúng tôi đã đến căn nhà một gia đình Việt Nam mà Thượng tọa Minh Châu đang tạm trú. Khi Thượng tọa từ phòng riêng đi ra, tôi thấy đó là một người trung niên mặc áo cà sa vàng, đi đứng bình thản vững chãi, người toát ra một vẻ tử tế đầy trí huệ. Quả thật ông ta trông giống như vị sưmà tôi đã gặp hai năm trước đây khi người bước qua khuôn viên Đại học Wisconsin. Tuy nhiên, tôi không chắc lắm vì không có gì là chắc, với lại có thể có hai nhà sư Đông Á trông giống nhau. Tôi đã trông thấy vị sư ở Wisconsin cách bảy, tám mươi thước, nên tôi không thấy rõ mặt lắm. Tôi đành phải chịu khó ngồi chờ để cho chủ nhà và ông sư bạn tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt xong đã. Khi có cơ hội, tôi mới hỏi Thượng tọa: “Thưa đây có phải là lần đầu tiên ngài sang Hoa Kỳ không?”. Ông ta trả lời: “Thưa không, tôi đã ở đây vài năm về trước”. Chỉ chờ đợi có thế, tôi hỏi tiếp: “Thưa có phải là ngài đãở trong khuôn viên Đại học Wisconsin vào tháng Tám năm 1965 không?”. Và ông ta trả lời: “Đúng vậy, hôm ấy tôi đến thăm một người bạn tôi là Giáo sư Richard Robinson. Hôm đó, ông Robinson vừa bắt đầu một chương trình nghiên cứu Phật học tại đấy”. Tôi kể lại hôm ấy tôi đã thấy ngài từ xa đi qua khuôn viên đại học. Ông ta cười nhẹ và nói: “Thế thì đây không phải là lần đầu tiên chúng ta gặp nhau”.
Nhiều năm sau, khi Thượng tọa Minh Châu trở lại Hoa Kỳ (chắc khoảng năm 1969), ngài ở lại vài ngày tại nhà trọ của chúng tôi ở Claremont. Tuy nhiên, khi tôi chuẩn bị sang Á châu để thọ Bồ-tát giới và học Phật pháp, Thượng tọa đã có nhiều lời khuyên bảo hữu ích và cho tôi một bức thư giới thiệu đến các bậc tôn túc của Giáo hội Phật giáo bên Á châu. Tôi giữ kỹ bức thư đó và khi tôi đến Kandy thì bức thư ấy vẫn còn. Thượng tọa đãđề nghị với tôi là khi đến Sri Lanka, tôi hãy thọ giáo với ngài Nyanaponika MahaThera. Tôi đã đi tu ở đó bảy năm nhưng vẫn chưa học được đầy đủ. Trong nămđầu, thỉnh thoảng tôi viết thư cho Thượng tọa Minh Châu để tham vấn và người bao giờ cũng trả lời tôi rất sớm và đầy đủ.
Năm 1975, tôi không còn liên lạc với người nữa, nhưng khi tôi chuẩn bịbuổi pháp thoại, nhớ lại những lần gặp gỡ trước đây một cách sâu sắc, tôi thấy tôi phải tìm cách hỏi xem người ra sao. Nhờ mạng lưới internet, qua một người Việt Nam ở bên Úc châu, tôi được biết là Thượng tọa vẫn còn ở thành phố Hồ Chí Minh, nhưng nay thì rất yếu và bị bệnh Parkinson. Người chắc đã phải gần 90 tuổi. Tôi viết cho người một lá thư, và gửi điện thư (e-mail) đến người Việt Nam bên Úc, nhờông ta chuyển thư ấy đến người bạn ông ta, cũng là một tu sĩ Phật giáo, từng làđệ tử của Thượng tọa Minh Châu.
Trong vài chục năm vừa qua, trước khi mắc căn bệnh tàn hại, Thượng tọa Thích Minh Châu đã dịch bốn bộ kinh Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Việt. Tôi chỉ biết được điều đó mới gần đây thôi. Bây giờ đây là một chuyện kỳ thú và lạlùng đã xảy ra làm mọi người phải thắc mắc. Vào cái ngày đầu tháng Tám năm 1965ấy, có một chàng sinh viên Hoa Kỳ mới 20 tuổi, một anh chàng ngày nào đó sẽ trởnên người đồng dịch giả Trung bộ kinh, dịch giả Tương ưng bộ kinh, và (hy vọng) một ngày nào đó sẽ dịch cả Tăng chi bộ kinh sang tiếng Anh, vì một sự tình cờ, được gặp một vị sư Việt Nam, lớn hơn anh ta gần ba chục tuổi, cũng đang dịch bốn bộ kinh đó sang tiếng Việt. Anh chàng sinh viên Hoa Kỳngày đó chẳng quan tâm gì đến Phật học mà chỉ mới bắt đầu đọc ít sách về Phật giáo mà thôi. Anh ta không có ý định gặp vị sư, mà thực ra cũng đâu có giáp mặt nhau đâu. Nhìn dưới khía cạnh nhân quả khách quan, thì cuộc gặp gỡ chỉ là một sự trùng hợp. Chàng sinh viên Hoa Kỳ chỉ ngẫu nhiên đi vào một thành phố anh tình cờ đến, nhìn thấy vị Thượng tọa từ xa, để rồi ra đi không biết vị đó là ai. Vị sư cũng không nhìn thấy chàng thanh niên Hoa Kỳ này.
Điều gì đã khiến tôi quyết định đi tản bộ sáng hôm đó, rồi rẽ khỏi đường quanh hồ mà đi vào khuôn viên đại học, đúng chỗ đó và lại đúng lúc đó? Có thựcđó chỉ là một sự tình cờ, một chuỗi những quyết định ngẫu nhiên? Nếu đã nêu lên những câu hỏi đó thì hãy hỏi thêm: Có một cái vòng duyên khởi nào nối kết chuyến đi California của tôi với chuyến đi Wisconsin của nhà sư đúng lúc ấy không? Nếu tôi nhớ không lầm thì chúng tôi đã định khởi hành hai ngày trước, nhưng vì có một chút vướng bận vào phút cuối nên chúng tôi phải dời chuyến đi đến sáng thứ Hai ấy. Nếu chúng tôi đã đi đúng ngày giờ như đã định thì buổi hội ngộ với nhà sư chắc đã không xảy ra.
Khi tôi rời trường đại học, yên chí rằng mình sẽ không bao giờ gặp lại nhà sư ấy nữa, tôi không bao giờ nghĩ trong thâm tâm làm sao đểgặp lại con người ấy. Tuy nhiên, tôi đã đưa một chuỗi những quyết định, trong thâm tâm không cố ý, đến việc gặp lại nhà sư lần nữa, mà lần này hai người chúng tôi đã là con Phật. Tôi đã chọn học cao học tại một đại học mà tại đó tôiđã gặp và trở thành bạn hữu với một nhà sư Việt Nam khác, tuy rằng tôi khi vàođó học tôi không biết vị sư ấy cũng học trường này (đúng hơn, không biết cảviệc có tu sĩ Việt Nam học nữa). Và qua người bạn này, tôi được gặp lại vị sưmà tôi đã gặp hai năm trước, một vị sư có một phong thái đã làm tôi rất chú ý, mặc dầu tôi không biết là hai nhà sư này lại quen biết nhau. Dù tôi biết là Hòa thượng Thích Minh Châu đã viết một cuốn sách nghiên cứu đối chiếu Trung bộkinh viết bằng Pali và kinh Trung a hàm viết bằng Hán tự, nhưng hẳn nhiều năm sau, khi tôi bắt đầu dịch những kinh viết bằng Pali (sang tiếng Anh), tôi vẫn chưa biết là Thượng tọa đã dịch sang tiếng Việt rồi. Và cả hai bản dịch của chúng tôi, sang tiếng mẹ đẻ của chúng tôi, gần như giống hệt nhau. Phải chăng điều đó đã được tiên liệu bởi cuộc gặp gỡ ở Đại học Wisconsin, nơi mà tôi chưa bao giờ trở lại sau cuộc gặp gỡ và có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ quay lại nữa trong đời.

Source:
http://namtong.org/mainpage/mainpage.htm

Review sách: Hiểu về trái tim – Minh Niệm

Đây có lẽ là lần đầu tiên bloghoctap.com review một cuốn sách mà chưa đọc xong. Nhưng thật sự trong quá trình thưởng thức tác phẩm này, mình thấy cần phải chia sẽ tới các bạn cuốn sách hay này để các bạn thưởng thức.

“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này.

Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.

Ngoài ra, điểm đặc biệt của cuốn sách này chính là toàn bộ số tiền thu được từ việc bán sách này sẽ được làm từ thiện cho việc mổ tim cho trẻ em khuyết tật. Đây là một phần của chương trình “Hiểu về trái tim” được phát động nhằm gây quỹ từ thiện cho trẻ em khuyết tật. Tham khảo tại website : http://hieuvetraitim.org/

Với khoảng 470 trang nhưng giá chỉ có 88,000đ mà thôi, còn chần chờ gì nữa mà không ra hiệu sách và mua liền một cuốn, vừa hiểu về trái tìm của mình lại vừa chữa lành trái tim của người khác, bloghoctap.com thấy thật ý nghĩa.

Một điểm hay của cuốn sách này, nếu như bạn nào không có thời gian ngồi đọc, đó là sách có kèm 1 đĩa DVD Audio cho nội dung sách và 50 chủ đề được 50 người mẫu, diễn viên, nghệ sỹ nổi tiếng đọc. Với giọng đọc ấm áp, truyền cảm cùng với 50 bài viết rất hay, bloghoctap.com tin chắc cuốn sách này sẽ giúp bạn rất nhiều trong cuộc sống dường như trôi quá nhanh này.

Nhiều khi không có ở nhà để nghe, bloghoctap.com post lên đây đầy đủ 50 file MP3 để nghe khi cần và cũng chia sẽ đến các bạn. Bloghoctap.com post lên đây không phải để nói với các bạn là hãy nghe online, đừng có mua sách mà nói với các bạn rằng, nếu sách thật sự có ý nghĩa đối với bạn, hãy mua 1 cuốn đi nhé, dù bạn đọc hay là nghe, điều đó không quan trọng, quan trọng là bạn đã làm một việc có ích.

DVD Audio với hơn 50 giọng đọc của những nghệ sỹ, diễn viên nổi tiếng như Thành Lộc, Bảo Quốc, Kim Xuân, Đàm Vĩnh Hưng…sẽ hút hồn bạn, sẽ khiến bạn tĩnh tâm và ngồi nghe để hiểu về trái tim của mình. Phiên bản MP3 online này bloghoctap.com đã giảm chất lượng để đáp ứng nhu cầu nghe Online (128kbps) và để thôi thúc bạn mua sách vì có kèm DVD với chất lượng tuyệt vời (320kbps) – khoảng 2.2GB, đảm bảo nghe file gốc cực hay.

Đồng thời trong bản gốc, sau mỗi truyện đều có 1 ca khúc được trình bày, phiên bản online bloghoctap.com đã cắt bỏ phần ca khúc sau đó để bạn tập trung nghe sách. Mua sách bạn nhé!

Gởi lời cảm ơn tới những ai đã mua sách này hoặc vừa đọc xong bài này và mua sách. Cảm ơn bạn, bạn đã bắt đầu hiểu về trái tim của mình rồi đó.

HÃY MUA SÁCH ĐỂ HIỂU VỀ TRÁI TIM VÀ CHỮA LÀNH TRÁI TIM NGƯỜI KHÁC NHÉ!

Listen Audio book here:

http://bloghoctap.com/uploads/audiobook-hieuvetraitim/dewplayer-playlist.swf

Source: http://bloghoctap.com/review-sach/review-sach-hieu-ve-trai-tim-minh-niem.html

Mèo tập yoga

Ngồi thiền, đứng bằng hai chân sau, giữ thăng bằng trên hai chân trước là ba trong số những động tác yoga mà mèo có thể thực hiện.

Dan Borris, một nhiếp ảnh gia, đã chụp ảnh những con mèo tập yoga.

Những con mèo trong ảnh thuộc sở hữu của Liên đoàn Bảo vệ Động vật, một tổ chức quốc tế.

Yoga là phương pháp đặt thể xác và hoạt động hô hấp vào các tư thế, trạng thái đặc biệt dưới sự kiểm soát khắt khe của ý thức.

Mục đích của yoga là tăng cường khả năng kiểm soát tinh thần và thể xác.

Để trở thành một bậc thầy yoga, con người phải tập luyện nhiều năm.

Nhưng mèo chỉ cần 16 tuần để tập thành thục mọi động tác.

Một động tác khó.

Chùm ảnh cho thấy mèo, cũng như nhiều loài động vật khác, có những khả năng khó tin.

Minh Long (Ảnh: China Daily)

Source:
http://vnexpress.net/gl/khoa-hoc/2012/02/meo-tap-yoga/